Tinh thần tự học và Thiếu Nhi

Thứ 7 | 20/11/2021 - Lượt xem: 385
TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÓI QUEN TỰ HỌC VÀ LÀM SAO ĐỂ XÂY DỰNG THÓI QUEN NÀY  CHO LỨA TUỔI THIẾU NHI
Chủ đề: TESOL
GV hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Như Danh
GV hỗ trợ: Justin Đỗ Công Lý 
Thành viên:
Nanee - Nguyễn Ngọc Trúc Ngân
Julie - Huỳnh Thanh Thảo
Sophia - Võ Thị Thuý
Tracy - Phạm Thuỳ Trang

MỤC LỤC

1. Giới thiệu.............................................................................................................................. 2
2. Tổng quan lý thuyết.............................................................................................................. 3
2.1 Tính tự chủ là gì?......................................................................................................... 3
2.2. Phân loại tính tự chủ................................................................................................... 4
2.3. Tầm quan trọng của tính tự chủ nói chung và khả năng tự học của học sinh ở lứa tuổi thiếu nhi nói riêng................................................................................................................................... 5
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen tự học................................................................ 7
3. Tính tự học và việc học ngôn ngữ của người học trẻ tuổi..................................................... 8
3.1 Phân loại độ tuổi?......................................................................................................... 8
3.2. Đặc điểm về việc học ngôn ngữ của người học trẻ tuổi.............................................. 8
3.2.1 Mức độ tập trung............................................................................................... 8
3.2.2  Nhận thức về tầm quan trọng của việc học ngôn ngữ còn hạn chế.................. 9
3.2.3 Khó có động lực học tập.................................................................................... 9
3.3 Mối tương quan giữa việc học ngôn ngữ và thói quen tự học................................... 10
3.4 Bối cảnh của học viên IAS ở độ tuổi thiếu nhi.......................................................... 11
4. Làm thế nào để xây dựng tính tự học cho học viên thiếu nhi ở trung tâm IAS................. 12
4.1 Vai trò của giáo viên IAS.......................................................................................... 12
4.2 Vai trò của người học................................................................................................ 13
4.3 Vai trò của phụ huynh............................................................................................... 14
5. Tổng kết.............................................................................................................................. 15
6. Tham khảo........................................................................................................................... 17

LỜI NGỎ

Mừng Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20.11.2021
“Điều gì xảy ra không quan trọng, quan trọng là cách chúng ta phản ứng với nó.” - Epictetus
Tình hình dịch bệnh đã ảnh hưởng đến kế hoạch cuộc sống của không ít người. Tuy nhiên, nếu khéo tận dụng, khoảng thời gian này cũng là cơ hội tốt để chúng ta phát triển bản thân.
Trên tinh thần ấy, đội ngũ giáo viên Quốc Tế Mỹ đã hoàn thành khóa huấn luyện Viết học thuật kéo dài hơn 2 tháng, với kết quả là những nghiên cứu rất xuất sắc của các thầy cô về chủ đề “Tầm quan trọng của tự học đối với việc học ngôn ngữ và cách thức rèn luyện khả năng tự học”. Hy vọng rằng đây sẽ là một bước tiến mới trong sự nghiệp của quý thầy cô để chúng ta có thể truyền nguồn cảm hứng tự học đến các thế hệ học viên tiếp theo.
Chúng ta có thể khám phá tầm quan trọng của tính tự học dưới nhiều góc độ khác nhau và các bạn sẽ thấy được tính tự học ảnh hưởng thế nào đến việc học ngoại ngữ của thiếu nhi, thiếu niên và sinh viên. Một điều trăn trở chúng ta trong vai trò là giáo viên, phụ huynh và học viên là làm sao có thể xây dựng được tinh thần tự học cho học viên và giúp học viên duy trì được tinh thần đó. Bài nghiên cứu của quý thầy cô Anh ngữ Quốc Tế Mỹ (IAS) sẽ giúp cho quý thầy cô tiếng Anh, quý phụ huynh và các học viên thấy được tầm quan trong của tính tự học và cách thế xây dựng và phát triển nó để đem lại kết quả học tập cao nhất.
Tập sách này được chia thành 3 phần:
Phần 1: Tầm quan trong của tính tự học đối với thiếu nhi và cách thế xây dựng tinh thần tự học này
Phần 2: Đánh giá và phát triển tính tự học nơi học viên thiếu niên
Phần 3 đề cập đến tầm quan trọng của tính tự học trong việc học ngoại ngữ và cách thế xây dựng nó nơi các sinh viên không chuyên Anh
Chúng tôi hy vọng cẩm nang này sẽ đóng góp một phần kiến thức, kinh nghiệm vào lãnh vực Giảng Tiếng Anh như Ngôn Ngữ Thứ Hai (TESOL) đồng thời giúp giáo viên tiếng Anh, quý phụ huynh và học sinh sinh viên trong việc dạy và học tiếng Anh hữu hiệu
Thân ái kính chúc quý vị vạn sự tốt lành
Thomas và Justin
PHẦN 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA THÓI QUEN TỰ HỌC VÀ LÀM SAO ĐỂ XÂY DỰNG THÓI QUEN NÀY  CHO LỨA TUỔI THIẾU NHI

1. Giới thiệu
Tinh thần tự học của học viên là khi học viên tự kiểm soát và chịu trách nhiệm về việc học của chính họ, cả về những gì học viên học và cách học như thế nào để hiệu quả. Trong việc dạy và học ngôn ngữ, nhiều phương pháp định hướng hoặc thúc đẩy việc học tồn tại khác nhau, đáng kể ở mức độ khuyến khích động cơ hoặc thói quen tự học của học viên (Deci & Ryan, 1985; Ryan, Connell, & Deci, 1985). Theo Jack. C. Richard từ Autonomus learner (2021), tinh thần tự học giúp cho việc học tập trở nên tự chủ và tập trung hơn, do đó học viên đạt được kết quả học tập tốt hơn, vì việc học tập dựa trên nhu cầu và sở thích của học viên. Điều này trái ngược với truyền thống, nhờ vào việc giáo viên hướng dẫn, hầu hết các quyết định đều do giáo viên đưa ra. Việc sử dụng “phương pháp tự nghiên cứu” trong một trung tâm là một trong những ứng dụng của phương pháp này. Phần lớn các nghiên cứu trong về tinh thần tự học chủ yếu tập trung vào những người học lớn tuổi hơn (Richard 2021). Tuy nhiên, sự quan tâm trong suốt những năm học tiểu học ngày càng tăng. Trong tiểu luận này, tinh thần tự học sẽ được xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau. Việc tự điều chỉnh sẽ được vạch ra ban đầu thông qua nhiều nghiên cứu, trong đó tập trung vào giai đoạn giáo dục tiểu học.
2. Tổng quan lý thuyết
Kỹ năng tự học là một trong những kỹ năng đóng vai trò quan trọng, thiết yếu trong việc tiếp thu nguồn kiến thức và duy trì tính phản xạ đối với mỗi cá nhân người học. Theo nghiên cứu từ nhóm giáo viên đến từ trường THCS và THPT Hồng Đức (2020) cho rằng có tính tự học, người học sẽ biết cách tổ chức và sắp xếp công việc của họ, từ đó làm bước đệm cho quá trình nâng cao chất lượng của sự tiếp nhận kiến thức. Tuy nhiên, đối với độ tuổi trẻ em, vấn đề này rất khó hình thành vì ở lứa tuổi này cần có sự tham gia và hướng dẫn tận tình từ phía phụ huynh và thầy cô.Và điều này vô tình  là yếu tố tác động làm giảm khả năng chủ động và tự định hướng của các em trong quá trình học tập. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của Thầy Lê Hữu Tân (2019) đã cho biết rằng độ tuổi này là độ tuổi cần được định hướng rõ ràng về việc tự học để trẻ phát triển khả năng của bản thân từ điều cơ bản nhất – khả năng tự học. Vậy làm thế nào để tăng khả năng tự học của trẻ em trong độ tuổi này và đặc điểm của lứa tuổi này là gì? Mời các bạn cùng tham khảo nội dung trong bài viết dưới đây.
2.1 Tính tự chủ là gì?
Tính tự chủ là khả năng tự quản lý và thực hiện công việc mà không phụ thuộc vào bất cứ ai. Tính tự chủ này được áp dụng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là học tập, và nó đóng vai trò rất quan trọng. Tự học ở đây không phải nói đến các thiết bị công nghệ hay những con rô bốt giúp làm bài tập về nhà, mà ở đây nó là quyền tự quyết về việc học của mỗi cá nhân học sinh. Họ sẽ luôn luôn cần điều này để giúp bản thân học tập tốt hơn và đạt được mục tiêu mà mình đề ra. Tuy nhiên, để duy trì được khả năng tự học này, học sinh phải nỗ lực rất nhiều và cần rất nhiều hỗ trợ từ giáo viên và gia đình. Không chỉ vậy, học sinh cần tin tưởng vào bản thân và tự chịu trách nhiệm về hành trình học tập của mình. Như Clare (1997) đã từng viết về điều này, “Học tập tự chủ đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng trong cả lý thuyết và ứng dụng văn học trong giáo dục. Nếu chúng tôi đồng ý rằng việc giúp học sinh chấp nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với học tập của bản thân là một mục tiêu quan trọng, sau đó chúng ta phải giúp họ phát triển các năng lực và thái độ cần thiết cho việc học tập tự định hướng.”
2.2. Phân loại tính tự chủ
Tính tự chủ được chia ra làm nhiều loại nhưng nhìn chung có 3 loại chính: tự chủ về mặt cảm xúc, tự chủ về hành vi và tự chủ về mặt nhận thức.
Tự chủ về cảm xúc
Dhillon (2014) khẳng định rằng sự tự chủ về cảm xúc là khả năng kiểm soát và điều tiết cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của một người. Khi một người có khả năng quản lý cảm xúc tốt, người đó có thể tự mình đưa ra quyết định rõ ràng cho dù họ cần phụ thuộc vào ai đó hay tự mình làm, không cần dựa dẫm vào ai. Ngoài ra, họ sẽ ít có khả năng gây ra sai lầm hơn những người không thể quản lý cảm xúc của chính mình, và kết quả là hiệu suất công việc và học tập của họ sẽ tăng lên. Tính tự chủ về cảm xúc này không phải khi con người trưởng thành rồi mới có mà nó đã phát triển ngay từ khi còn nhỏ. Erikson (1963) nói rằng trẻ em sẽ cảm thấy tự chủ và độc lập hơn khi chúng tự khám phá và trải nghiệm môi trường xung quanh chúng. Hơn nữa, khi mọi người có quyền tự chủ về cảm xúc, họ sẽ chịu trách nhiệm cho mỗi hành vi, đưa ra quyết định tốt hơn và thiết lập các mối quan hệ dễ dàng hơn (Crittenden, 1990).
Tự chủ về hành vi
Về khả năng tự chủ hành vi, một người có thể tự quyết định những gì nên làm và những gì không nên làm. Với điều này, họ sẽ chỉ làm theo những gì do chính họ đưa ra và không bắt chước hay làm theo phong cách của người khác và cũng không chịu sự quyết định bởi cha mẹ hoặc bạn bè. Khi mọi người trưởng thành hơn, họ sẽ ngày càng nhận thức các hành vi một cách tự chủ hơn trong các tình huống cụ thể cũng như đưa ra được các giải pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề xung quanh. Fraser (2021) cũng khẳng định rằng những người có tính tự chủ về hành vi có thể suy nghĩ một cách trừu tượng, tự mình đưa ra những lựa chọn để so sánh và cân nhắc trước khi thực hiện. Khi làm như vậy, họ trở nên tự tin hơn, đưa ra quyết định kiên quyết hơn và đạt được khả năng tự chủ về hành vi một cách hiệu quả.
Tự chủ về nhận thức
Tự chủ nhận thức là sự tự nhận thức của một cá nhân về việc học của chính mình. Họ không chỉ mạnh dạn đưa ra suy nghĩ, quan điểm của bản thân mà còn có khả năng đánh giá, đưa ra quyết định, có thái độ sống tích cực và niềm tin mãnh liệt. Russell & Bakken (2002) khẳng định, “Tính tự chủ đề cập đến khả năng phát triển của một người trong việc suy nghĩ, cảm nhận, đưa ra quyết định và hành động theo cách riêng.” Hơn nữa, những người có khả năng nhận thức cao sẽ biết mình cần phải làm gì, nên làm hay không nên làm điều gì, biết cách sắp xếp lịch học cũng như tìm cách giải quyết vấn đề của bản thân. Họ cũng biết việc học quan trọng như thế nào và hiểu rằng họ cần độc lập hơn để quá trình học tập trở nên chủ động và hiệu quả hơn.
2.3. Tầm quan trọng của tính tự chủ nói chung và khả năng tự học của học sinh ở lứa tuổi thiếu nhi nói riêng
Không thể phủ nhận sự tự chủ là một điều thiết yếu đối với bất kỳ ai; không có nó, một người khó có thể chủ động để làm bất cứ điều gì. Không chỉ người lớn hay người đi làm mới cần mà các bạn học sinh, sinh viên cũng cần phải có đức tính này, đặc biệt là trẻ em. Vậy nó quan trọng đến thế nào? Tại sao tính tự chủ lại cần thiết như vậy? Nhìn chung, khi có khả năng tự chủ, người học sẽ cải thiện và nâng cao các kỹ năng của bản thân và bằng cấp. Cụ thể ở đây, chúng ta nói về việc học ngoại ngữ. Khi học viên tự chủ được, họ sẽ biết con đường nào để đến được mục tiêu đó và xác định được những gì họ cần phải làm theo từng bước một. Bây giờ họ sẽ có thể vạch ra một kế hoạch rõ ràng, biết rằng sau mỗi giai đoạn họ sẽ đạt được một cái gì đó và những gì họ còn đang thiếu sót để cải thiện nó. Sau một thời gian dài xây dựng ý thức tự học với rất nhiều nỗ lực, chắc chắn họ sẽ thấy được những gì họ đã đạt được.
Tuy nhiên, độ tuổi khác nhau có thể ảnh hưởng đến khả năng tự học. Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, điều này càng yếu hơn vì khả năng nhận thức của các em không cao bằng người lớn. Chúng cũng không xác định rõ mục tiêu cho bản thân cũng như buộc bản thân phải phấn đấu vì một điều gì đó, trừ khi bị cha mẹ và giáo viên thúc ép. Hầu hết trẻ em chỉ loanh quanh ăn, học và chơi và không có quá nhiều suy nghĩ phức tạp. Chúng chỉ hoàn thành bài tập được giáo viên đưa ra như một nghĩa vụ phải thực hiện, sau đó tiếp tục các trò chơi còn đang dang dở hoặc thực hiện những hành trình khám phá yêu thích của mình. Vì lý do này, giáo viên sẽ cần phải kiên nhẫn, dành thời gian để thấm nhuần tính tự học cho học sinh thông qua giải thích hoặc khuyến khích. Khi đó, trẻ sẽ bắt đầu có ý thức hơn, có nhận thức rõ ràng và dần thay đổi hành vi, thói quen của mình. Theo Grolnick & Ryan (1987), Ryan & Connell (1989), khả năng tự chủ gắn liền với kết quả tích cực chẳng hạn như hứng thú hơn với việc học, tăng khả năng hiểu thêm gì đó cũng như điều chỉnh cách học của học sinh.
Một khi một thói quen mới được thiết lập, trẻ em sẽ tích cực hơn trong học tập. Chúng sẽ tự động ngồi vào bàn học đúng giờ và không cần bố mẹ nhắc nhở nữa. Giờ đây, bọn trẻ sẽ cảm thấy mình có trách nhiệm hơn với việc học của mình. Sự ép buộc và áp lực thường không mang lại hiệu quả, đôi khi nó thậm chí còn phản tác dụng. Thay vào đó, hãy thường xuyên động viên trẻ tự giải quyết vấn đề, cho chúng lựa chọn và tăng sự hứng thú của chúng vào học tập thông qua các hoạt động thú vị, hấp dẫn sẽ giúp chúng có động lực. Chúng cũng nên được khuyến khích nói lên ý kiến của bản thân và tự mình giải quyết các vấn đề (Deci & Ryan, 1985; Reeve, 2006; Reeve, Bolt & Cai, 1999). Từ đó, các em sẽ tìm thấy cảm hứng trong học tập ngoại ngữ và dần trở nên tự tin, năng động hơn, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động do trường tổ chức, vừa vui chơi vừa làm quen thêm được nhiều bạn khác để có cơ hội học hỏi lẫn nhau.
2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến thói quen tự học
Đầu tiên đó là sự thúc đẩy và tạo động lực cho học viên, theo một số quan điểm trước đây, thói quen tự học bắt nguồn từ một sức mạnh ẩn sâu bên trong tiền thức của chúng ta. Tuy nhiên, để đánh thức và giải phóng năng lượng tinh thần này, “đòn bẩy” là một yếu tố không thể thiếu. Trong tình huống này, giáo viên được coi là đòn bẩy (người truyền cảm hứng cũng như động lực) có tác động quan trọng đến nhận thức của học viên. Chúng tôi không thể hiểu rõ tầm quan trọng của lời nói cho đến khi có sự phản hồi. Ngoài ra, sự thúc đẩy từ giáo viên cực kỳ quan trọng so với những người khác như cha mẹ, họ hàng, hoặc thậm chí đồng nghiệp, do thực tế là chỉ giáo viên mới biết rằng liệu học viên c có đang bước trên con đường phù hợp hay không, liệu họ có đang tiến bộ hay không.
Bên cạnh đó, hầu hết các học viên đều phải chịu trách nhiệm trong việc học của mình, tuy nhiên, họ vẫn phải học cách kiểm soát tốt hơn việc học của mình. Do đó, sự khuyến khích từ giáo viên và nhiều hoạt động dựa trên nhiệm vụ hơn trong hoặc ngoài lớp học là cần thiết để học sinh trở thành người học tự chủ hơn (Hui-ju, 2015). William từng nói rằng Người thầy tầm thường thì kể, người thầy giỏi thì giải thích, người thầy cấp trên thì chứng minh, người thầy vĩ đại thì truyền cảm hứng.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đối với việc học tập của học viên, sự khuyến khích của cha mẹ đóng một vai trò quan trọng. Vì vậy, cha mẹ hãy tạo cho trẻ khả năng tự kiểm soát việc học của mình và độc lập. Cha mẹ hãy vạch ra mục tiêu trong tương lai để trẻ có động lực phấn đấu, nỗ lực. Theo Little, D (1991), nếu cha mẹ muốn con mình trở thành phi công và thích tìm hiểu về lĩnh vực này như chính con mình. Cha mẹ hãy tạo niềm đam mê và động lực cho nó bằng cách kể nhiều câu chuyện về phi công, máy bay, cảm giác vui sướng khi được bay trên bầu trời, hình ảnh phi công nổi tiếng.
3. Tính tự học và việc học ngôn ngữ của người học trẻ tuổi
Học ngoại ngữ là yếu tố quan trọng và cần sự đầu tư lâu dài của mỗi bản thân người học, không chỉ là một hoạt động độc lập mà nó còn là sự kết nối và phối hợp với nhiều các yếu tố khác như: người học, người dạy, các yếu tố tác động đến quá trình học ... Tuy nhiên, đối với mỗi độ tuổi và mỗi trình độ khác nhau, sẽ có những đặc điểm, tính chất khác nhau tương ứng với những đặc điểm riêng biệt như: sự tập trung, động cơ học tập, .... Và với độ tuổi trẻ em, các đặc điểm sau có thể được kể đến như:
3.1 Phân loại độ tuổi?
Có rất nhiều định nghĩa về sự phân chia lứa tuổi và ý nghĩa của nó. Nghiên cứu của Smith (1995) đã từng khẳng định rằng: nhóm học trẻ tuổi là nhóm học sinh từ 6 đến 12 tuổi. Đây là lứa tuổi bắt đầu có những sự phát triển về tư duy, ngôn ngữ, phản ứng cơ thể cũng như các hành động. Chúng vẫn đang trong quá trình khám phá bản thân. Tuy nhiên Yasemin Kırkgöz (2018) lại cho rằng học viên nhỏ tuổi hay còn có thể hiểu là nhóm tuổi từ 6 đến 9 tuổi  bởi vì nhóm tuổi này bắt đầu có sự khác biệt về thể chất, tâm lý, xã hội, tình cảm, khái niệm và các khía cạnh nhận thức.
3.2. Đặc điểm về việc học ngôn ngữ của người học trẻ tuổi
3.2.1 Mức độ tập trung
Sự tập trung đến những gì đang diễn ra ở lứa tuổi này còn hạn chế, trẻ dễ cảm thấy nhàm chán, không quan tâm đến những gì đang xảy ra. Theo nghiên cứu từ Rhalmi (2019), nhóm tuổi này có khoảng chú ý hạn chế do đó sẽ dễ mất tập trung nếu các hoạt động trong lớp không đủ thú vị, hương vị, sự đa dạng và không có nhiều hoạt động như trò chơi, ca hát, v.v. để lôi kéo các em cùng tham gia và tập trung cho đến khi kết thúc bài học. Giáo viên phải khéo léo chuyển kiến thức từ dạng lý thuyết, khó tiếp thu sang dạng kiến thức dễ tiếp thu có liên kết với các hoạt động thể thao, trò chơi ... mà bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể áp dụng và làm theo. Bên cạnh đó nhóm tuổi này sẽ chú ý đến các hoạt động đang diễn ra với sự chuyển đổi linh hoạt và thú vị, chúng sẽ không tập trung cố định và dành nhiều thời gian cho một hoạt động cụ thể. Để làm được điều này, giáo viên cần hiểu được bản năng, tâm lý, đặc điểm cũng như các khía cạnh khác nhau của người học là trẻ em, từ đó xây dựng các chương trình học thú vị, hấp dẫn để thu hút và cải thiện được người họ.
3.2.2 Nhận thức về tầm quan trọng của việc học ngôn ngữ còn hạn chế
Việc tiếp thu tốt ngôn ngữ thứ hai, đặc biệt là tiếng Anh, có thể là thành phần đóng góp quan trọng đến sự thành công của công việc, mục tiêu và ước mơ của nhiều người. Tuy nhiên, không phải lứa tuổi nào cũng nhận thức được tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ, đặc biệt là lứa tuổi tập ăn, tập nói - trẻ em. Theo nghiên cứu của Robinson (1995), người học phải có nhận thức rõ ràng về việc học tập, từ đó xây dựng nhận thức đó thành mục đích để tiếp thu kiến thức, hình thành quy tắc nhất định cho bản thân mà không chỉ dựa vào giáo viên. Tuy nhiên nhóm tuổi này vẫn chưa xác định được tính kỷ luật và còn ham chơi nên ý thức tiếp thu ngôn ngữ mới vẫn còn giới hạn. Bên cạnh đó, Schmidt (1995) cũng khẳng định rằng việc học ngôn ngữ cần phải có sự quan tâm và nhận thức tích cực của bản thân người học, không để nó diễn ra một cách vô thức và không thể kiểm soát. Maria (2008) cũng đã định nghĩa về nhận thức ngôn ngữ: “Nhận thức ngôn ngữ có thể được định nghĩa rõ ràng như kiến​ về ngôn ngữ, nhận thức có ý thức và sự nhạy cảm trong ngôn ngữ học tập, giảng dạy ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ ”. Học ngôn ngữ và việc sử dụng ngôn ngữ phải là hai hoạt động song hành với nhau. Nhận thức phải luôn là điều được xác định từ những bước đầu tiên trong quá trình tiếp thu một ngôn ngữ mới. Điều này cần phải được xác định ngay ở độ tuổi này.
3.2.3 Khó có động lực học tập
Tập trung vào làm bất cứ điều gì là cực kỳ khó khăn đối với hầu hết các lứa tuổi, đặc biệt là độ tuổi trẻ em. Tuổi này không có đủ kiên nhẫn và động lực để chờ đợi vào kết quả cuối cùng. Có động lực sẽ giúp chúng tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất. Không chỉ có vậy, khi gặp khó khăn, thay vì bỏ cuộc, chúng sẽ cố gắng vượt qua. Thỉnh thoảng động lực đối với mọi đứa trẻ ở độ tuổi này chỉ là một phần thưởng nhỏ nhưng nó sẽ là nguồn động viên rất lớn đối với chúng. Dựa theo nghiên cứu từ Kate Kelly (2014) cho rằng động lực học tập sẽ giảm đi nếu trong môi trường học tập, chúng nhận quá nhiều tình huống tiêu cực như bị đánh dấu bài vì không nắm rõ kiến thức, tệ hơn là không nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cô và các bạn trong lớp. Thái độ tích cực từngười dạy sẽ giúp người học cảm thấy hứng thú và phát triển kiến thức, ngược lại, nếu họ nhận được nhiều những trải nghiệm tiêu cực trong môi trường học đường, nó sẽ dần dần khiến các em cảm thấy không thoải mái, từ đó tạo ra cảm giác thất bại và mất dần động lực đến lớp.
Bên cạnh đó, Sougari (2013) cũng cho rằng việc tham gia vào quá trình học tập từ phía cha mẹ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến động cơ tự học của trẻ. Nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía gia đình sẽ giúp các em cảm thấy thoải mái, tự tin, tìm thấy động lực để tự học và không còn cảm thấy bị phụ thuộc vào gia đình để mất đi động lực tự học mỗi ngày.
3.3 Mối tương quan giữa việc học ngôn ngữ và thói quen tự học
Dựa trên đánh giá tổng thể các nghiên cứu liên quan, Dikinson (1995) thảo luận về tính tự học có mối quan hệ với ngôn ngữ học giáo dục nói chung. Học viên xác định rằng tự học là người chủ động và độc lập trong quá trình học tập; những người biết nhu cầu và sở thích của họ và có thể tìm ra mục tiêu phù hợp với họ. Họ có thể xem tự học là một thái độ cũng như một năng lực; một thái độ đối với việc học trong đó người học chịu trách nhiệm về việc học của họ, và năng lực hoạt động và tính độc lập. Ngoài ra, trong bài báo của mình, Cotterall (1995) định nghĩa tự học là “mức độ mà người học thể hiện khả năng sử dụng một loạt các chiến thuật để kiểm soát việc học của họ”. Sau đó, học viên quy định các chiến thuật và xếp chúng vào một nhóm để thiết lập mục tiêu, ‟chọn mục tiêu và nhiệm vụ” và lập kế hoạch theo dõi cũng như đánh giá tiến độ”. Nếu người học thích học ngôn ngữ, họ sẽ chịu trách nhiệm về việc học ngôn ngữ của mình, cần phải làm cho người học có trách nhiệm và khuyến khích họ có vai trò tích cực trong việc ra quyết định.
3.4 Bối cảnh của học viên IAS ở độ tuổi thiếu nhi
Dựa trên kiến thức và kinh nghiệm nền tảng của học sinh, có thể là một cách hiệu quả để thu hẹp khoảng cách và làm cho nội dung dễ tiếp cận hơn. Có rất nhiều khái niệm học tập, nếu thiếu nhi biết lý do tại sao các em muốn học thì việc thiết lập mục tiêu rất dễ dàng. Ví dụ, có thể các em muốn đi du lịch đến một quốc gia nói tiếng Anh. Có lẽ các em đã biết nhiều cụm từ hữu ích, nhưng các em muốn cải thiện kỹ năng nghe và phát âm của mình. Dù mục tiêu của các em là gì, hãy viết chúng ra. Và các em cần học trong bao lâu để đạt được mục tiêu? Những học viên nhỏ tuổi cần dành bốn mươi giờ một tháng để học tiếng Anh. Một số học sinh bắt đầu chậm, nhưng học tập đều đặn và chăm chỉ.
Ngoài ra, vì các em còn nhỏ nên cha mẹ cần giúp các em thực hiện các mục tiêu học tập là điều cần thiết nếu các em muốn thành công khi còn là học sinh. Học tiếng Anh đòi hỏi rất nhiều động lực. Học viên nhỏ tuổi tự thỏa thuận việc học tập với chính các em. Động lực luôn giảm dần và trôi qua, nhưng có những chiến lược chúng ta có thể sử dụng để tiếp tục hoạt động ngay cả khi năng lượng của chúng ta giảm xuống. Bên cạnh đó, những điều học viên thiếu nhi làm tốt nhất trong cuộc sống là thiếu nhi sẽ làm những gì các em thích làm. Nếu các em không cảm thấy thú vị khi học tiếng Anh thì có thể các em sẽ học không đúng cách! Các em có thể là những học viên nghiêm túc đồng thời cũng vui vẻ. Các em có thể tự mình tạo những phần thưởng để tạo cho bản thân có động lực để tiếp tục học tập. Bối cảnh của người học là một trong những yếu tố có thể ảnh hưởng đến lượng và chức năng của việc sử dụng ngôn ngữ riêng trong giảng dạy tiếng Anh.
4. Làm thế nào để xây dựng tính tự học cho học viên thiếu nhi ở trung tâm IAS.

4.1 Vai trò của giáo viên IAS

Số lượng học viên độ tuổi thiếu nhi chiếm 1/3 tổng số học viên ở trung tâm IAS chính vì vậy nhóm tuổi này cũng nhận được sự quan tâm của quý thầy cô nơi đây. Bên cạnh đó, do một vài đặc điểm đặc biệt của nhóm tuổi này (tính tình, thói quen, khả năng tự lập...) vai trò của giáo viên luôn được đề cao hơn so với vai trò của những người khác (ba mẹ, bạn bè ....).
Việc dạy học cho độ tuổi thiếu nhi là một trong những công việc thú vị bởi vì như chúng ta đều biết học viên thiếu nhi thích học qua những hoạt động vui (trò chơi, nhảy, múa, hát...). Tuy nhiên, để học viên ở độ tuổi này duy trì việc tham gia vào các hoạt động là một thử thách rất lớn đối với giáo viên. Trên thực tế, giáo viên IAS không chỉ là những người truyền đạt kiến thức đơn thuần, mà còn đóng vai trò như một người hướng dẫn, lên kế hoạch, người khích lệ ...
Với vai trò là một người giáo viên, để có thể giúp học viên ở độ tuổi này xây dựng được thói quen tự học, bản thân giáo viên phải trang bị cho mình những về thói quen tự học, cũng như tâm lý độ tuổi này để có thể dễ dàng hơn trong việc quản lý lớp, và hỗ trợ học viên.  Có rất nhiều lựa chọn giúp cho giáo viên tìm hiểu, và trau dồi các kiến thức này như là tham gia các khoá học TESOL, các buổi hội thảo trực tuyến hoặc tìm hiểu thêm các tư liệu trên mạng. Bên cạnh đó, khi giáo viên đã chuẩn bị cho mình các kiến thức về thói quen tự học, thì việc áp dụng các kiến thức này vào môi trường thực tế là điều cần thiết. Các hoạt động để thúc đẩy tính tự lập cho các em trong lớp (thảo luận, làm việc nhóm, thủ công, vẽ, thiết kế.....). Cuối cùng bản thân giáo viên IAS nên là một tấm gương sáng cho các em noi theo, bởi vì sự ảnh hưởng sâu sắc của giáo viên đối với độ tuổi này. Giáo viên nên là người tiên phong trong việc hình thành thói quen tự học cho bản thân. Nếu giáo viên có thể tích cực hoàn thiện những điều nói trên sẽ giúp cho học viên thiếu nhi hình thành được quá trình tự học. Saleema (2017) cũng từng chỉ ra rằng người học sẽ có thể quản lý việc học ngoại ngữ của họ theo nhiều cách khác nhau như phản ánh quá trình học tập của chính họ, đánh giá hiệu suất của họ và đưa ra các quyết định quan trọng liên quan đến việc học của họ.
4.2 Vai trò của người học
Với sự hỗ trợ từ giáo viên IAS và phụ huynh, người học có thể đạt được kết quả học tập tốt và tạo động lực cho việc học tập trong tương lai. Tuy nhiên, nhận thức bên trong của người học cũng đóng góp một phần rất lớn vào sự cải thiện này. Do đó, cá nhân cần phải chủ động trong việc tự động viên, tự khám phá và thậm chí là tự sửa chữa trong học tập. Những yếu tố này góp phần rất lớn vào con đường thành công, khắc phục được tình trạng thụ động trong học tập khi người học chỉ giữ trạng thái cân bằng mà không có bất kỳ chuyển động nào để tiến lên phía trước. Ngoài ra, trong môi trường lớp học, khoảng cách giữa học sinh và giáo viên nên được giảm thiểu bằng cách tăng sự tương tác trong mối liên kết này. Vì thực tế là càng có nhiều cơ hội để hỏi trong lớp học, thì quá trình học diễn ra hiệu quả hơn.
 Tích cực tham gia các hoạt động Hỏi & Đáp trong lớp học có thể là một khởi đầu tốt, vì thực tế là những học viên nhỏ tuổi có thể có nhiều lợi ích từ việc này, chẳng hạn như mở mang nhiều kiến thức hơn, tự tin hơn, nhớ bài sâu hơn và lâu hơn, đặc biệt là khả năng kiểm soát quá trình học tập một cách khoa học, và tự điều chỉnh thói quen tự học của mình. Little (2007) và Benson (2001) cho rằng sự tự chủ của người học không chỉ là một kỹ năng của người học mà thay vào đó là sản phẩm của một quá trình tương tác liên tục giữa người học và người dạy. Hơn nữa, một trong những yếu tố quan trọng nhất dẫn đến chiến thắng là “sự bền bỉ” (khả năng theo đuổi mục tiêu một cách nhất quán, lâu dài). Do đó, sau khi lên kế hoạch học tập, các học viên nhỏ tuổi nên duy trì tiến trình học tập thường xuyên thay vì lâu lâu mới làm. Mọi thứ sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có khả năng duy trì những gì chúng ta đặt ra trước đó. Cách tốt nhất để có được sự bền bỉ là nuôi dưỡng trí tuệ bằng cách tiếp nhận những câu chuyện tích cực hơn từ các giáo viên, những người thành công.

4.3 Vai trò của phụ huynh

Không thể phủ nhận, sự giáo dục của cha mẹ có một phần trách nhiệm trong việc nâng cao tính tự chủ trong học tập của trẻ, đặc biệt là đối với những học viên nhỏ tuổi. Tuy nhiên, trong thời kỳ cạnh tranh hiện nay, một số bậc cha mẹ có xu hướng mất phương hướng trong việc hỗ trợ con cái một cách phù hợp và áp dụng những phương pháp tiêu cực nhưng không hiệu quả như trừng phạt nghiêm khắc hoặc kiểm soát quá mức. Quan điểm này chỉ phù hợp với những người hoài nghi liên tục về con cái của họ. Vậy làm thế nào để khơi dậy thói quen tự chủ trong học viên nhỏ của chúng ta?
Có nhiều phương pháp khác nhau mà cha mẹ có thể hỗ trợ cho trẻ em. Đầu tiên, sự kết nối giữa trung tâm IAS và gia đình là rất quan trọng vì nó có lợi cho việc bắt kịp quá trình học tập của trẻ. Bằng cách giữ liên lạc liên tục và phản hồi thường xuyên cho trung tâm, phụ huynh có thể hiểu thêm về chương trình học, quá trình học tập, kết quả, điểm mạnh, thậm chí cả điểm yếu của con em mình, từ đó tìm ra phương pháp đào tạo phù hợp. Ngoài ra, bầu không khí ở nhà cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc ổn định thói quen tự chủ. Cụ thể hơn, việc bố trí chỗ ngồi rộng rãi, thoáng mát, sáng sủa và yên tĩnh là điều thuận lợi cho các em để các em có thể tập trung hoàn toàn vào bài học. Cuối cùng, trẻ em sẽ biết ơn nếu cha mẹ tôn trọng quyền tự do cá nhân của chúng và đặt niềm tin vững chắc vào quyết định của trẻ. Có lẽ, Điều mà các bậc phụ huynh có thể giúp đỡ là hãy khuyến khích, đóng góp nhiều ý kiến tích cực hơn để hướng con em chúng ta nắm bắt cơ hội có được một phương pháp học tập hiệu quả. Ngoài ra, điều cần thiết là cung cấp cho những người học trẻ một bầu không khí thoải mái và thân mật. Brian (2011) chỉ ra rằng việc duy trì sự kiểm soát của cha mẹ ức chế sự phát triển tính tự chủ ở trẻ em. Ngoài ra, học sinh thấy nó “trầm trọng hơn” hoặc “bực bội” khi cha mẹ của họ cố gắng gây ảnh hưởng quá nhiều đến việc học của họ. (Brian: 2011). Vì vậy, cho phép con cái của bạn xử lý tình huống và cho trẻ thời gian để học cách tự bước lên đôi chân của mình là những quyết định sáng suốt của cha mẹ. Cuối cùng, để trẻ gặp phải những thất bại và giải thích rằng những trở ngại xuất hiện một cách tự nhiên trong quá trình học tập, nhưng mọi chuyện sẽ tốt hơn khi ta đối diện với nó. (Greene: 2017) Bằng cách để trẻ em học hỏi từ những sai lầm của chúng, chúng ta đang cho trẻ một cơ hội đáng kể để nâng cao khả năng phục hồi, gan dạ, tự tin và kỹ năng đối phó. Tóm lại những ý kiến trên, chúng ta đều thấy rằng sự hỗ trợ từ cha mẹ có thể mở ra thói quen tự học của trẻ và cũng là sự phát triển của quá trình học tập trong nhiều năm tới.
  1. Tổng kết
Thông tin trong cuốn sách này là nguồn kiến thức hữu ích về mối quan hệ giữa giáo viên, phụ huynh, bạn bè và học sinh cũng như khả năng tự học của người học. Mỗi người có khả năng riêng biệt và có những điểm mạnh, điểm yếu khác nhau, nhưng tất cả đều có thể phát triển năng lực của bản thân người học một cách tích cực và hiệu quả nhất. Các mối quan hệ không chỉ ảnh hưởng lẫn nhau mà còn có thể tạo ra những hiệu ứng tích cực đối với người khác với vai trò như người hướng dẫn, khuyến khích học viên, và tạo điều kiện để họ phát huy hết khả năng của mình; cha mẹ luôn ở bên để khích lệ và đồng hành cùng con trên hành trình học tập, hiện thực hóa những giấc mơ của con; bạn bè luôn giúp đỡ, hỗ trợ khi gặp khó khăn, cùng nhau cố gắng để đạt được kết quả tốt nhất.
Bên cạnh đó, tính tự học cũng cho thấy việc tự chủ cần thiết và quan trọng như thế nào đối với mỗi học sinh. Khi có được thói quen và tính tự giác này, việc học của học sinh không chỉ đơn giản hơn và dễ dàng hơn mà còn giúp cải thiện thành tích học tập. Nó giúp học sinh biết cách tổ chức tốt thời gian biểu hàng ngày, biết việc gì cần ưu tiên làm trước, việc gì làm sau. Học sinh sẽ hạn chế được tình trạng nước đến chân mới nhảy. Không chỉ là người học, những người là giáo viên, phụ huynh, sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn, khác hẳn với các quan điểm cứng nhắc, cũ kỹ, không còn phù hợp với cách học hiện đại, mọi người sẽ hiểu hơn, thông cảm hơn và sẵn sàng hỗ trợ học sinh để chúng tự tin tự mình bước đi, sẽ cảm thấy yên tâm vì vẫn có người thân yêu tin tưởng, cổ vũ và ủng hộ khi cần.
Học sinh ngày càng có trách nhiệm hơn, hiểu biết hơn và ý thức tốt hơn về mọi thứ xung quanh, với các môn học nói chung và ngoại ngữ nói riêng. Học bây giờ là không còn bị giới hạn trong kiến thức, những bài học cứng nhắc, những bài kiểm tra khô khan hoặc những con số và điểm số mà nó sẽ mở ra một cánh cửa mới với nhiều cơ hội phía trước để đến gần hơn với mục tiêu, ước mơ và thành công. Những rào cản vốn có về tâm lý và tuổi tác dần được xóa bỏ. Người học có thể để bản thân trải nghiệm nhiều hơn và tích lũy nguồn vốn quý giá. Không ngại ngùng, e dè mà thoải mái chia sẻ, nhiệt tình học hỏi, trình bày ý kiến, quan điểm cá nhân với thầy cô và các bạn. Người học làm chủ được việc học cũng như công việc sau này của mình, chứng tỏ sức mạnh cũng như nâng cao giá trị bản thân của họ.
  1. Tham khảo
Brian, C.(2011). The Role of Parental Involvement in the Autonomy Development. Retrieved 26 September, 2021 from https://www.cedu.niu.edu/~walker/research/Qualitative%20-%20HE.pdf
Clare, E. (1997). Fostering Learning Autonomy Through the Use of Learning Strategies. Retrieved from https://www.jstor.org/stable/40031865
Dhilon, R. (2014). Relationship of Emotional Autonomy with Anxiety and Depression. from https://www.researchgate.net/profile/RupanDhillon/publication/300403824_Relationship_of_Emotional_Autonomy_with_Anxiety_and_Depression/links/6101197c169a1a0103bfba58/Relationship-of-Emotional-Autonomy-with-Anxiety-and-Depression.pdf?__cf_chl_jschl_tk__=pmd_wGC.qqh6FCbXV_lMV_e1LqB5GlJ5xdlkmq9bokFLgnU-1633249153-0-gqNtZGzNAyWjcnBszQ0l
Deci, E. L., & Ryan, R. M. (1985). Intrinsic motivation and self-determination in human behavior. New York: Plenum Press.   
Fraser, R. (2021). Helping your Adolescents Develop Autonomy. Retrieved from   https://www.verywellfamily.com/autonomy-definition-3288320
Greene, R. W.(2017, August 15). Raising human beings: Creating a collaborative partnership with your child. New York, NY: Scribner. Retrieved 26 September, 2021 from https://www.goodtherapy.org/blog/how-parents-can-foster-autonomy-encourage-child-development-070418
Grolnick, W. S., & Ryan, R. M. (1987). Autonomy in children's learning: An experimental and individual difference investigation. Journal of Personality and Social Psychology, 52, 890–898
Hui-ju, L. (2015). Journal of Language Teaching and Research. Retrieved September 18, 2021, from http://dx.doi.org/10.17507/jltr.0606.02
Kırkgöz, Y.  (2018). Development and Assessment of a Foreign Language Curriculum for Primary Education in Turkey. Retrieved from https://www.igi-global.com/chapter/development-and-assessment-of-a-foreign-language-curriculum-for-primary-education-in-turkey/191670
Kelly, K (2014). Why Kids Who Learn and Think Differently Need to Stay Motivated. Retrieved from https://www.understood.org/articles/en/the-importance-of-staying-motivated-for-kids-with-learning-and-thinking-differences
Le H. T (2019 January). Hình thành thói quen tự học cho học sinh tiểu học. Retrieved from https://gdthhatinh.violet.vn/entry/hinh-thanh-thoi-quen-tu-hoc-cho-hoc-sinh-tieu-hoc-12525792.html
Little, D. (2007). Language learner autonomy: Some fundamental considerations revisited. Innovation in Language Learning and Teaching, 1(1), 14-29.
Maria (2008). The Importance of Language Awareness. Retrieved from https://www.diva-portal.org/smash/get/diva2:1496995/FULLTEXT01.pdf
Reeve, J. (2006). Teachers as facilitators: What autonomy-supportive teachers do and why their students benefit. The Elementary School Journal, 106, 225–236.
Ryan, R. M., & Connell, J. P. (1989). Perceived locus of causality and internalization: Examining reasons for acting in two domains. Journal of Personality and Social Psychology, 57, 749–761
Reeve, J., Bolt, E., & Cai, Y. (1999). Autonomy-supportive teachers: How they teach and motivate students. Journal of Educational Psychology, 91, 537–548.
Rhalmi, M.(2019, September 1). Seven characteristics of young learners. Retrieved from  https://www.myenglishpages.com/blog/seven-characteristics-of-young learners/
Robinson (1995). Aptitude, awareness, and the fundamental similarity of implicit and explicit second language learning.
Richard Schmidt (1996). Attention and Awareness in Foreign Language Learning. (p. 303-357). Honolulu: University of Hawaii Press.
Russell, S., & Bakken, R J. (2002). Development of autonomy in adolescence. Retrieved November 10, 2005, from University of Nebraska-Lincoln Extension, Institute of Agriculture and Natural Besources Website: http://www.ianrpubs.unl.edu/epubl ic/live/g 1449/build/g 1449. pdf.
Smith, K (1995) Assessing Young Learners. Can we? Should we? Testing and Young Learners Special Interest Group (IATEFL). 
Schmidt (1995). Consciousness and foreign language learning: A tutorial on the role of attention and awareness in learning.
Sougari, A. M., & Hovhannisyan, I. (2013). Delving into young learners’ attitudes and motivation to learn English: Comparing the Armenian and the Greek classroom. Research Papers in Language Teaching and Learning, 1, 120-137. 
Saleema, M.A.(2017).English Language Teaching. Retrieved 26 September, 2021 from http://doi.org/10.5539/elt.v10n7p183.
Thompson, Ruth A. (2006). "Cognitive Autonomy in Adolescence". All Graduate Theses and Dissertations.
William Arthur Ward Quotes. (n.d.). BrainyQuote.com. Retrieved September 18, 2021, from BrainyQuote.com Website: https://www.brainyquote.com/quotes/william_arthur_ward_103463
Zarei, A.A. and Zarei, N. On the effect of Language Proficiency on Learners’ Autonomy and Motivation
Литовченко_методичка. (2015. May 14). 1.3. Characteristics of Young Learners. Retrieved from https://studfile.net/preview/5783237/page:4/
 

ĐIỀN THÔNG TIN ĐĂNG KÝ HỌC VÀ HỌC BỔNG