“Điều gì xảy ra không quan trọng, quan trọng là cách chúng ta phản ứng với nó.” - Epictetus Tình hình dịch bệnh đã ảnh hưởng đến kế hoạch cuộc sống của không ít người. Tuy nhiên, nếu khéo tận dụng, khoảng thời gian này cũng là cơ hội tốt để chúng ta phát triển bản thân. Trên tinh thần ấy, đội ngũ giáo viên Quốc Tế Mỹ đã hoàn thành khóa huấn luyện Viết học thuật kéo dài hơn 2 tháng, với kết quả là những nghiên cứu rất xuất sắc của các thầy cô về chủ đề “Tầm quan trọng của tự học đối với việc học ngôn ngữ và cách thức rèn luyện khả năng tự học”. Hy vọng rằng đây sẽ là một bước tiến mới trong sự nghiệp của quý thầy cô để chúng ta có thể truyền nguồn cảm hứng tự học đến các thế hệ học viên tiếp theo. Chúng ta có thể khám phá tầm quan trọng của tính tự học dưới nhiều góc độ khác nhau và các bạn sẽ thấy được tính tự học ảnh hưởng thế nào đến việc học ngoại ngữ của thiếu nhi, thiếu niên và sinh viên. Một điều trăn trở chúng ta trong vai trò là giáo viên, phụ huynh và học viên là làm sao có thể xây dựng được tinh thần tự học cho học viên và giúp học viên duy trì được tinh thần đó. Bài nghiên cứu của quý thầy cô Anh ngữ Quốc Tế Mỹ (IAS) sẽ giúp cho quý thầy cô tiếng Anh, quý phụ huynh và các học viên thấy được tầm quan trong của tính tự học và cách thế xây dựng và phát triển nó để đem lại kết quả học tập cao nhất. Tập sách này được chia thành 3 phần: Phần 1: Tầm quan trong của tính tự học đối với thiếu nhi và cách thế xây dựng tinh thần tự học này Phần 2: Đánh giá và phát triển tính tự học nơi học viên thiếu niên Phần 3 đề cập đến tầm quan trọng của tính tự học trong việc học ngoại ngữ và cách thế xây dựng nó nơi các sinh viên không chuyên Anh Chúng tôi hy vọng cẩm nang này sẽ đóng góp một phần kiến thức, kinh nghiệm vào lãnh vực Giảng Tiếng Anh như Ngôn Ngữ Thứ Hai (TESOL) đồng thời giúp giáo viên tiếng Anh, quý phụ huynh và học sinh sinh viên trong việc dạy và học tiếng Anh hữu hiệu Thân ái kính chúc quý vị vạn sự tốt lành Thomas và Justin
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ TỰ HỌC VÀ XÂY DỰNG TÍNH TỰ HỌC CHO HỌC VIÊN THIẾU NIÊN TẠI IAS
Theo Dickinson (1993), tính tự học muốn nói đến việc một cá nhân nào đó thực hiện được việc học tập một cách độc lập, không cần đến sự trợ giúp của những người xung quanh. Vậy nên, tính tự học giúp chủ thể hình thành được thói quen chuẩn bị bài học mới cũng như tinh thần trách nhiệm đối với việc học của mình. Ngoài ra, Holec (1981) cũng định nghĩa tính tự học là việc một người có khả năng chịu trách nhiệm về việc học của bản thân và các quyết định học tập có liên quan. Là người học, chúng ta cần mạnh dạn phát huy hết năng lực bản thân và sẵn sàng tiếp nhận các nhiệm vụ học tập mới. Do đó, chúng ta nên tự lập kế hoạch cho quá trình học kết hợp với đánh giá hiệu quả thực hiện.
Tính tự học có vai trò quan trọng đối với việc học ngôn ngữ thứ hai. Trước hết, khả năng tự học tốt sẽ tạo ra hiệu quả học tập cao. Wang và Peverly (1986) cho rằng, người tự học được sẽ chủ động và độc lập hơn trong quá trình học tập, do đó họ có thể xác định mục tiêu, hình thành mục tiêu cho bản thân và có thể thay đổi mục tiêu cho phù hợp với nhu cầu và hứng thú học tập của bản thân. Bên cạnh đó, các em cũng có thể sử dụng các chiến lược học tập và theo dõi quá trình học tập của chính mình. Tương tự, Little (1991) và Holec (1985) cho rằng những người có tính tự học thường có suy phản biện tốt và đưa ra được quyết định đúng đắn, đồng thời nắm bắt được kỹ năng cần thiết để thực hiện một chương trình học tập mà bản thân đề ra. Theo nhận định của Dickinson (1993), người có khả năng tự học thường nắm rõ các nội dung trong bài học và đưa ra được các mục tiêu học tập của riêng mình phù hợp với mục tiêu của giáo viên hoặc củng cố thêm nội dung giảng dạy của giáo viên. Thứ hai, khả năng tự học tạo điều kiện cho cá nhân sử dụng ngôn ngữ thứ hai để giao tiếp được nhiều hơn. Dam (1995) chỉ ra rằng khả năng tự học ngôn ngữ thứ hai của một người thể hiện qua việc bản thân người học đó có thể giao tiếp bằng ngôn ngữ ấy ở mức độ nào. Chẳng hạn giáo viên cho học sinh tự chủ quá trình học ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ bằng cách để các em lựa chọn hoạt động học tập yêu thích và tự đánh giá kết quả học tập của bản thân. Cách làm này thúc đẩy sự tương tác giữa các em trong việc học ngôn ngữ. Littlewood (1997) cũng khẳng định rằng tính tự chủ phát triển ở người học ngôn ngữ thông qua quá trình học nên chúng ta cần nâng cao khả năng hoạt động độc lập của học sinh với ngôn ngữ và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp trong các tình huống thực tế, không thể đoán trước. Bằng cách này, học sinh có thể dễ dàng tự chịu trách nhiệm về việc học của mình và áp dụng các chiến lược tích cực, hữu ích của cá nhân vào việc học trong và ngoài lớp học. Cuối cùng, tính tự học tốt giúp chúng ta có động lực học tập cao. Vả lại, động lực học tập cũng thúc đẩy ý thức tự học giống như Ushioda (1996) khẳng định “không có động lực thì không có thái độ chủ động học”. Mối quan hệ qua lại giữa hai yếu tố này là cần thiết để người học thành công làm chủ ngôn ngữ đích. Một cuộc nghiên cứu được thực hiện ở Hồng Kông cho thấy rằng không chỉ có mối quan hệ tích cực giữa tính tự chủ học tập và động lực học tập mà thiếu động lực cũng có thể làm suy giảm tính tự học của sinh viên. Ngoài ra, Dickinson (1995) cho rằng thành công trong học tập và nâng cao động lực sẽ xảy ra khi người học kiểm soát được nhiều hơn quá trình học tập của mình. Người học phải chịu trách nhiệm trong quá trình học tập như lập kế hoạch, giám sát và tự đánh giá, nên động lực đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy ham muốn nội tại ở người học.
Margaret (2005) định nghĩa thanh thiếu niên là bất kỳ người nào trong độ tuổi từ 10 đến 19. Họ được chứng minh là trải qua ba thay đổi cơ bản liên quan đến ngoại hình, cảm xúc và nhận thức. Tất cả các bé trai và bé gái đều bắt đầu dậy thì với những thay đổi về hình dạng hoặc kích thước cơ thể. Nữ thiếu niên gặp phải những thay đổi bao gồm sự phát triển của vú và bắt đầu hành kinh, trong khi nam thiếu niên có tinh hoàn phát triển. Ngoài ra, những thay đổi về cảm xúc khiến hành vi của thanh thiếu niên không nhất quán. Tâm trạng của các em thay đổi thất thường nên người lớn khó có thể kiểm soát và hiểu được những suy nghĩ của các em. Margaret minh họa điều này bằng cách trích dẫn lời giải thích của Carol Bleifield rằng các em thiếu niên lúc đầu muốn được đối xử và chăm sóc như một đứa trẻ nhỏ, nhưng chỉ sau năm phút, chúng đẩy người lớn ra và yêu cầu tự mình làm mọi việc. Vì vậy, chúng ta cần làm cho các em hiểu rằng chính bản thân các em đang ở giữa một số thay đổi lớn không ổn định. Cuối cùng, những thay đổi về nhận thức làm cho các em có những bước tiến dài trong tư duy, lý luận và khả năng học hỏi được nhiều hơn. Các em có thể nghĩ về những ý tưởng và về những thứ không thể nhìn thấy hoặc chạm vào. Các em học những tài liệu phức tạp và nâng cao hơn ở trường. Các em mong muốn tiếp thu và áp dụng kiến thức cũng như xem xét một loạt các ý tưởng hoặc lựa chọn.
Giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường học tập phù hợp. Schuitema (2016) nói: “Thầy cô làm được vậy bằng cách khuyến khích học viên tự học.” Ferlazzo (2015) khẳng định, thanh thiếu niên ở độ tuổi này thường thích chứng tỏ, thể hiện bản thân và làm những gì mình thích, không muốn bị gò bó bởi bất cứ điều gì hay bất kỳ ai khác. Do đó, giáo viên thường để học viên thoải mái thể hiện bản thân, sở thích và giá trị của mình. Ngoài ra, giáo viên giúp các em phát triển sở thích cá nhân, khuyến khích các em tích cực tham gia vào các hoạt động và không ngừng khơi gợi động lực ở các em (Schuitema và cộng sự; Stearns, 2013). Hơn nữa, Theobald (2016) cũng cho rằng giáo viên cần cho học sinh biết mục tiêu học tập và giúp chúng thiết lập được mục tiêu học tập của mình thông qua các hoạt động sáng tạo nhằm thu hút được sự quan tâm và tham gia của các em. Trong quá trình học tập, giáo viên giúp đỡ học sinh bằng cách cung cấp cho các em những phản hồi tích cực để phát triển năng lực của mình. Theo Bain (2004) và Ferlazzo (2015), giáo viên nên thường xuyên đưa ra những phản hồi tích cực cho học viên, động viên kịp thời để chúng tự kiểm soát việc học và cảm thấy tự tin vào khả năng của bản thân.
Ảnh hưởng của cha mẹ
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự giáo dục của cha mẹ đóng vai trò quan trọng đối với kết quả học tập của con cái. Điều này cũng phù hợp với phát hiện của Jimerson và Teo (1999), Klebanov, Brook, Gunn, và Duncan (1994), Kohn (1963), Pamela, Davis Kean (2005). Cha mẹ có khả năng giáo dục con cái ở tuổi vị thành viên khá hiệu quả vì họ nắm được nội dung học ở trên trường của con mình nên có thể hỗ trợ các em làm bài tập về nhà và động viên tinh thần học tập của các em (Alexander et al., Năm 1994). Hơn nữa, cha mẹ có thể tạo được điều kiện tốt nhất để con cái học tập, tham gia trải nghiệm học học đường và hòa nhập vào môi trường học đường (Steinberg và đồng sự, 1992). Một nghiên cứu khác của Jacob và Harvey (2005) cho thấy cấu trúc gia đình, trình độ học vấn của cha mẹ, sự quan tâm và cách nuôi dạy con cái, v.v., có liên quan đến thành công trong học tập của các em. Thật vậy, nghiên cứu của Campbell, Hombo và Mazzeo (1999) cũng cho thấy trình độ học vấn của cha mẹ cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập của con cái. Nếu cha mẹ có học vấn tốt, họ sẽ biết cách hướng dẫn con cái học tập tốt hơn. Hơn nữa, trẻ sẽ có chỗ dựa tinh thần vững chắc sẽ có ý thức học tập tốt, tự chủ và tự tin hơn. Ngoài ra, môi trường học tập ở nhà cũng quan trọng để giúp trẻ em học tập có chất lượng. Ở nhà, cha mẹ đóng vai trò là hình mẫu về học tập, cần phát huy các nguồn lực về giáo dục của gia đình, có thái độ đúng mực và coi trọng việc học hành của con cái. Miller (1980) cho rằng: “Trình độ học vấn của cha mẹ được công nhận là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả học tập của các em”. Nếu cha mẹ quan tâm và tham gia vào việc học hành của con cái, các em có khả năng đạt thành tích học tập xuất sắc hơn ở trường. Vì vậy, cả nhà nước và nhà trường cần có các chương trình nâng cao nhận thức của phụ huynh về vai trò giáo dục trong gia đình đối với kết quả học tập ở trường của con cái (Darling, 2008).
Ảnh hưởng của bạn bè
Ảnh hưởng tiếp theo đến việc tự học ở tuổi vị thành niên là bạn bè. Để xem xét ảnh hưởng của bạn bè cùng trang lứa đối với động lực học tập ở trường của thanh thiếu niên, Berndt, Laychak và Park (1990) yêu cầu mỗi học sinh khối 8 trong tổng số 118 em được ghép với một người bạn thân. Các cặp bạn bè được chỉ định ngẫu nhiên vào môi trường thi cử hoặc môi trường học tập có kiểm soát. Trong môi trường thi cử, các cặp dự thi phải thảo luận về những tình huống khó xử buộc họ phải quyết định giữa hai hành động phản ánh các mức độ khác nhau về động lực học tập. Trong điều kiện học tập có kiểm soát, bạn bè thảo luận về các chủ đề không liên quan đến trường học. Trước và sau các cuộc thảo luận, tất cả các em thiếu niên đều phải đưa ra quyết định và quan điểm của mình về những tình huống khó xử một cách độc lập. Giả thuyết đầu tiên là các cuộc thảo luận về tình huống khó xử dẫn đến những quyết định và quan điểm giống nhau. Giả thuyết thứ hai là các cuộc thảo luận sẽ dẫn đến sự chuyển hướng sang các quyết định khác nhau hơn. Các kết quả trên ủng hộ giả thuyết thứ nhất nhưng không phải giả thuyết thứ hai. Chúng ta thấy rằng các cuộc thảo luận hài hòa hơn liên quan đến trao đổi thông tin nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn giữa bạn bè dẫn đến những thay đổi lớn hơn trong các quyết định.
Các yếu tố bên trong như giới tính, tính cách cũng ảnh hưởng một phần đến khả năng tự học ngoại ngữ của thiếu niên. Điều này có thể không đúng 100% nhưng ít nhiều cũng có thể giải thích được vấn đề. Chúng ta thường biết nam và nữ có sự khác biệt không chỉ về sở thích mà còn cả về học tập. Con trai thường giỏi về hình học trong khi con gái giỏi về đại số. Ganley (2018) nói rằng các cô gái ở tuổi vị thành viên có xu hướng thiếu tự tin và có thái độ tiêu cực đối với môn toán. Ngoài ra, kỹ năng phân tích không gian và cách tiếp cận giải quyết vấn đề toán học của các nam thiếu niên thường tốt hơn các bé gái cùng trang lứa. Học viên nam thiếu niên có cái nhìn tổng quan và rõ ràng hơn và hiểu được mối quan hệ giữa các đối tượng và hình dung chúng tốt hơn nữ thiếu niên. Trong khi đó, các cô gái có khả năng nhớ tốt hơn vị trí của từng đối tượng mà họ đã gặp và có thể so sánh chúng với nhau một cách chính xác (Chan, 2019). Con trai thường có cái nhìn bao quát, tổng quát hơn con gái trong khi con gái có cái nhìn chi tiết và tỉ mỉ hơn con trai. Người ta đã chỉ ra rằng con gái có tính kỷ luật cao hơn và chăm chỉ học hơn con trai vì con trai thường không thích việc phải ngồi yên cả ngày chỉ để đọc hoặc hoàn thành bài tập. Thay vào đó, các em sẽ muốn chạy nhảy, vận động, chơi thể thao nhiều hơn. Đối với các bài tập được giao về nhà, các em chỉ hoàn thành khi các em muốn, không ép mình phải làm ngay khi học xong. Theo Maria (2018), cô khẳng định khi đến các sân chơi, có thể dễ dàng bắt gặp các bé trai chơi các trò chơi chạy nhảy hoặc chơi bóng nhiều hơn các bé gái. Điều này cũng đã được thể hiện rõ ràng ngay từ khi trẻ còn trong bụng mẹ. Tuy không đúng với tất cả nhưng các bé trai thường năng động hơn nhiều so với các bé gái. Hơn nữa, khả năng tận dụng và áp dụng kiến thức ngôn ngữ của bégái dường như cao hơn, trong khi bé trai có xu hướng tập trung vào các chiến lược học ngôn ngữ liên quan nhiều hơn đến logic (Gardner & Lambert, 1972). Cùng với giới tính thì tính cách của mỗi người cũng sẽ ảnh hưởng đến tính tự chủ trong học tập. Tính cách là vô cùng đa dạng và mỗi người là một cá thể duy nhất. Tuy nhiên, sẽ vẫn có những điểm tương đồng giữa người này và người kia dựa trên tính cách. Ví dụ như những người theo chủ nghĩa hoàn hảo, họ luôn yêu cầu mọi thứ phải hoàn hảo, đúng tiến độ và không có bất kỳ sai sót nào. Ngay cả một vấn đề nhỏ cũng có thể khiến họ cảm thấy khó chịu. Hewitt & Flett (1991) nhận thấy rằng những người theo chủ nghĩa hoàn hảo đặt ra những tiêu chuẩn rất cao, thúc đẩy bản thân đạt được những tiêu chuẩn đó và nỗ lực theo đuổi và đạt được tất cả các mục tiêu dù chúng không có thực ở bất kỳ lĩnh vực nào như làm việc, thể thao, nấu ăn ... Họ luôn có niềm tin rằng việc phạm sai lầm là điều tuyệt đối không được phép vì đó là bằng chứng của sự yếu kém. Thất bại hay bị từ chối luôn là mối bận tâm của họ. Điều này khiến họ dễ rơi vào trạng thái chán nản, thất vọng, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến rối loạn chức năng nhận thức và cảm xúc (Hollender, 1965). Cũng có người không đòi hỏi cao nhưng vẫn sẽ cố gắng nỗ lực để hoàn thành công việc được giao, không chỉ vì mục tiêu mà còn tạo được lòng tin với người khác. Những thành quả họ đạt được sẽ khiến họ hạnh phúc và trở thành nguồn động lực để họ cố gắng hơn nữa. Ngược lại, có những người tính tình lầm lì, không quan tâm nhiều đến công việc chỉ vì lợi mà bỏ, đôi khi chẳng làm được gì khiến mọi việc trở nên quá hạn. Những người không có tính tự giác trong học tập thường biểu hiện bằng việc không hứng thú với việc gì hoặc không chú ý nghe giảng của thầy cô. Họ chỉ làm theo vì họ buộc phải làm điều đó (Manon, 2020). Do đó, việc tự học cũng tương tự như vậy. Những người làm việc chăm chỉ và yêu cầu sự hoàn hảo thường có ý thức cao hơn về điều này, họ nỗ lực hết mình để đặt ra mục tiêu cũng như thực hiện công việc và học tập một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Vilora & Yilmaz (2010) khẳng định rằng có một số khác biệt về tính cách và sở thích giữa nam và nữ, phụ nữ thường tự quản hơn và dường như tận dụng cơ hội nhiều hơn, tốt hơn và có cách sống khác, cư xử tự chủ hơn trong và ra khỏi lớp.
Ảnh hưởng từ tiếp xúc với công nghệ.
Công nghệ có tác dụng tích cực đối với học sinh. Nó giúp cải thiện nhiều khía cạnh học tập của thanh thiếu niên, đặc biệt là những người học ngôn ngữ. Dựa trên nhu cầu của người dùng, mạng internet và các thiết bị công nghệ hiện đại ngày càng phát triển. Vì vậy, không khó để học sinh có thể tiếp cận và sử dụng chúng một cách thành thạo. Với khả năng nhanh nhẹn, thích ứng nhanh, các bạn học sinh, thế hệ trẻ ngày nay thường không gặp quá nhiều khó khăn. Đôi khi chỉ cần nghe và đọc hướng dẫn, các bé có thể tự làm theo và thực hiện vào lần sau. Khi đó việc học cũng vô cùng dễ dàng. Chỉ cần một chiếc máy tính hoặc điện thoại thông minh có kết nối internet, học viên có thể dễ dàng truy cập vào bất kỳ trang web học tập nào và giúp các bạn giải đáp những thắc mắc liên quan đến việc học. Công nghệ cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tự học của học sinh. Với công nghệ, người học có thể tự mình kiểm soát thời gian và địa điểm học một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn. Brown (2019) khẳng định rằng hãy thử so sánh cách học truyền thống trước đây và cách học hiện đại ngày nay, chắc chắn sẽ có một sự khác biệt đáng chú ý. Khi học theo phương pháp cũ, học sinh sẽ tiếp thu kiến thức thông qua tài liệu giấy. Mọi người đang đi cùng nhau, với tốc độ như nhau trong cùng một khoảng thời gian. Việc này luôn lặp đi lặp lại đến mức gây nhàm chán và khó đạt được hiệu quả tối đa cho tất cả người học vì có người học nhanh, có người học chậm. Vì vậy, học theo phương pháp mới, sử dụng công nghệ, là một giải pháp hữu ích và mang lại trải nghiệm học tập phong phú. Người học có thể linh hoạt thời gian, địa điểm và tất nhiên có thể lựa chọn hình thức học mà mình yêu thích và mang lại hiệu quả cao như xem video trên Youtube hoặc truy cập các trang web lý thuyết hay bài tập thông dụng. Tất cả đều được trình bày rõ ràng, dễ hiểu nên học viên hoàn toàn có thể chủ động tìm hiểu và tự giải đáp thắc mắc của mình. Nói chung, học sinh chỉ có thể hỏi giáo viên ở trường, nhưng không thể thường xuyên nếu họ bận. Bởi vì điều này, các em phải chờ đợi một thời gian dài để hiểu được câu trả lời. Với sự ra đời của công nghệ, điều này không còn nữa, các em có thể lên mạng tra cứu ngay để được giải đáp mọi thắc mắc. Mức độ phụ thuộc vào giáo viên do đó được giảm bớt, học sinh tự học và tự giải quyết vấn đề của mình một cách chủ động hơn. Theo Murray (1999), ông cho rằng quyền và khả năng tiếp cận thông tin dựa trên công nghệ cung cấp hướng dẫn cụ thể và phản hồi thích hợp để giúp người học giải quyết vấn đề nhanh chóng và điều này vô cùng hữu ích để họ ngày càng có trách nhiệm hơn với việc học của mình. Tuy nhiên, công nghệ cũng có hai mặt. Đối với những người không có tính tự chủ cao sẽ dễ trở nên phụ thuộc quá mức vào nó. Học sinh không tự suy nghĩ để trả lời mà lấy trực tiếp đáp án có sẵn trên mạng để sử dụng. Không chỉ vậy, các em còn dễ bị sa vào các trò chơi, nội dung ảo, độc hại trên mạng. Khả năng ghi nhớ nội dung bài học cũng sa sút dần. Công nghệ có thể dẫn đến sự phát triển sai lầm và hạn chế khả năng thúc đẩy bản thân của người học nếu học viên tiếp xúc nhiều với trò chơi trực tuyến (Gee, 2003). Ngược lại với mẫu người trên, có rất nhiều học sinh, sinh viên có ý thức tự học rất cao. Mặc dù công nghệ là con dao hai lưỡi nhưng những người có khả năng tự chủ sẽ tăng cường nhận thức về bản thân và hiểu những gì họ nên làm. Lúc này, các em sẽ biết chỉ nên sử dụng internet để tra cứu thông tin, rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho việc học ngoại ngữ và dựa vào cỗ máy thông minh để trả lời các câu hỏi chưa trả lời sau khi học trên lớp một cách nhanh chóng và linh hoạt. “Công nghệ cũng thúc đẩy học sinh học tập. Các em mong muốn có thời gian trên thiết bị của mình để khám phá và tìm hiểu mọi thứ thông qua các trang web, video, ứng dụng và trò chơi. Học sinh có thể học và vui chơi cùng một lúc, điều này giúp các em gắn bó với tài liệu, Brown cho biết (2019).
3. Xây dựng tính tự học cho học viên thiếu niên tại IAS
3.1.Vai trò của giáo viên Mặc dù khả năng tự học đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của bản thân học sinh nhưng không thể không kể đến các yếu tố bên ngoài, điển hình là đội ngũ giáo viên. Giáo viên là những người có ảnh hưởng lớn đến học sinh của họ. Họ không chỉ chịu trách nhiệm giảng dạy, giải thích và truyền tải kiến thức, nhưng cũng cung cấp, khuyến khích và thúc đẩy học viên. Với động lực mạnh mẽ này, học sinh sẽ cảm thấy việc tự học quan trọng như thế nào. Từ đó, họ sẽ hiểu rằng mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, làm thế nào để giáo viên IAS có thể truyền năng lượng nhiệt huyết này cho học sinh của mình? 3.1.1Khuyến khích tạo thêm nhiều động lực Richards & Rodgers (1986) đã khẳng định rằng không cần biết học sinh có tính tự lập nhiều đến thế nào, các học viên vẫn cần giáo viên ở bên hỗ trợ, hướng dẫn và tạo điều kiện để chúng tiếp thu được kiến thức, kỹ năng và thực hiện được việc học của chính mình, đồng thời cũng giúp họ phát huy tối đa những tiềm năng vốn có. Bởi vì quá trình học tập là một hành trình dài, với những nỗ lực không ngừng, nhằm giúp các em tự chủ hơn, giáo viên cần giải thích, thuyết phục học sinh rằng kết quả học tập sẽ tốt hơn khi chúng có khả năng tự học. Theo đó, mỗi giáo viên nói chung và giáo viên IAS nói riêng cần có kế hoạch cụ thể, rõ ràng để giúp học sinh chủ động và tăng tính chủ động trong học tập. Muốn được như vậy, giáo viên cần soạn bài cẩn thận, đầy đủ và phù hợp. Hơn nữa, bản thân học sinh cũng cần xem lại bài và chuẩn bị trước cho bài học mà chúng sẽ học ngày hôm đó. Khi có sự chuẩn bị từ cả hai phía, việc học sẽ hiệu quả và chủ động hơn. Tuy nhiên, đây không phải là tất cả. Nếu chỉ có phương pháp dạy tốt nhưng thiếu khả năng giao tiếp thì sẽ không thành công. Vì lý do này, giáo viên cần tìm cách truyền đạt kiến thức cho học sinh phù hợp và đạt hiệu quả cao, và điều không thể thiếu ở đây là tìm hiểu và xác định nhu cầu của người học là gì. Chắc chắn khi có mục tiêu rõ ràng, chúng ta sẽ vạch ra được chính xác những việc cần làm để đáp ứng được những nguyện vọng đó của người học, hỗ trợ họ trên con đường đi đến đích. 3.1.2Có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng Giáo viên không chỉ khuyến khích, động viên học sinh mà còn phải đưa ra các hướng dẫn học tập rõ ràng. Lúc này, chúng sẽ cần đặt ra những mục tiêu cụ thể để đạt được sau khi mỗi buổi học, cùng với thời hạn chi tiết cho các bài tập hoặc hoạt động nhất định. Học sinh sẽ dựa vào kế hoạch có sẵn này để chủ động sắp xếp thời gian của chính mình để hoàn thành tất cả một cách chu đáo, đầy đủ. Ngoài ra, họ cũng cần biết cách quản lý quỹ thời gian nhất định của bản thân. Nếu như chỉ lập kế hoạch, cho dù chi tiết và hoàn hảo đến đâu, mà không kiểm soát, quản lý nó, học sinh sẽ không đạt được điều mình muốn thì việc học không còn hiệu quả, dễ gây chán nản và cuối cùng dẫn đến bỏ cuộc. Giáo viên cần thiết kế hợp lý và khiến bài học thú vị để học sinh tích cực hơn trong học tập. Ngoài ra, cũng cần tìm nguồn, bổ sung, cung cấp tài liệu học tập phù hợp để sinh viên có thể học tập tại nhà hoặc hướng dẫn học sinh tìm các nguồn tài liệu cần thiết cho mỗi kiến thức (Richards & Rodgers, 1986). 3.1.3 Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của học tiếng Anh Không dễ để học viên nhận ra tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ bởi vì không phải ai cũng chọn con đường học vấn này và không phải ai cũng sẽ chọn những ngành nghề mà yêu cầu tiếng anh. Tuy nhiên, người học thực sự cần biết rằng nó có lợi hơn nhiều nếu thông thạo một ngôn ngữ khác ngoài tiếng mẹ đẻ của họ. Không chỉ để kiếm được một công việc tốt, mà còn giúp họ có được nhiều cơ hội và giúp họ thành công, khẳng định cũng như nâng cao giá trị của bản thân. Khi đó, rào cản ngôn ngữ sẽ dần được xóa bỏ và học sinh có thể tự do giao tiếp, chia sẻ và học hỏi từ những người đầy tài năng khác, đặc biệt là trong thời đại phát triển hội nhập hiện nay. Giáo viên cần phải hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ học sinh khi cần thiết và cũng để học sinh cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc học của mình (Riley, 1997). Từ những điều trên, giáo viên cần nâng cao nhận thức về vấn đề này với học sinh. Có lẽ học sinh sẽ không có những suy nghĩ sâu sắc cho tương lai của mình, nhưng giáo viên vẫn có thể xác định tư duy cho học sinh sớm thông qua các cấp độ tiếng Anh, điển hình là kì thi IELTS cũng như kỳ thi tốt nghiệp hoặc đại học để học sinh biết mình sẽ đạt được gì khi cố gắng học, và nó sẽ giúp ích gì cho hành trình học tập của họ. Ví dụ như khi đạt đến trình độ B1, học sinh có thể được miễn hoặc giảm học tiếng Anh ở đại học; hoặc khi đạt được B2, , chắc chắn cánh cửa đại học sẽ rộng mở chào đón. Edx (2016) cũng đã nói: “Học sinh sẽ nhận được chứng chỉ có giá trị sử dụng rộng rãi. Sau khi thi IELTS, họ sẽ nhận được kết quả kì thi đó và nó được công nhận và chấp nhận bởi hàng nghìn tổ chức trên khắp thế giới, bao gồm các công ty, trường đại học, các cơ quan chuyên nghiệp cũng như các cơ quan chính phủ." Điều quan trọng cuối cùng là dù là tự học thì học sinh vẫn cần giáo viên hỗ trợ. Vì vậy, bản thân giáo viên, những người không nên quá nghiêm khắc, không nên quá sát sao, cầm tay chỉ việc từng bước, chỉ nên đứng ở vị trí thích hợp để quan sát và giúp đỡ học sinh khi cần thiết. Do đó, các em sẽ có thể tự mình bước đi trên con đường học tập của mình nhưng không hề đơn độc hay phải e ngại bất cứ điều gì. 3.2 Vai trò của học viên Áp dụng phương pháp tự học được hay không không chỉ dựa vào giáo viên mà còn dựa vào bản thân học sinh. Bản thân học sinh có vai trò to lớn giúp các em tích cực hơn trong học tập. Một khi nhận thức được về tầm quan trọng của tính tự học, học sinh sẽ cần chiến lược giúp họ hoàn thành việc học một cách hiệu quả. Cụ thể, học sinh cần đặt các mục tiêu học tiếng Anh rõ ràng chẳng hạn như học để đạt được điểm IELTS mong muốn hoặc tạo nhiều cơ hội hơn cho bản thân hoặc đi du học. Khi có mục tiêu, học sinh sẽ dễ dàng hiểu họ cần chuẩn bị những gì cũng như đưa ra cách thức thực hiện. Bên cạnh đó, người học cũng cần rèn luyện kỹ năng quản lý thời gian của họ một cách tốt nhất. Auld (2020) lập luận rằng với việc quản lý thời gian hiệu quả và chi tiết, cụ thể, học viên có thể làm được nhiều việc hơn trong thời gian ngắn hơn. Bởi vì khi có lịch trình cụ thể và thời gian rõ ràng, học sinh sẽ tập trung hơn, xác định được mình cần phải làm gì tiếp theo và tránh cho bản thân bị sao nhãng. Các mục tiêu đặt ra vì thế dần được hoàn thành, họ sẽ không rơi vào tình trạng bị bỏ lỡ và điều này mang đến cho người học cảm giác thoải mái, an tâm khi không bị trễ hạn bất kì nhiệm vụ gì. Ngoài ra, nếu họ chỉ đưa ra mục tiêu, dù nó có chi tiết đến đâu mà không biết cách sắp xếp thời gian thích hợp thì mục tiêu ấy sẽ không bao giờ thực hiện được. Không chỉ vậy, học sinh còn cần chủ động, tìm kiếm thông tin, kiến thức thông qua công nghệ thông tin và sách tham khảo để giúp ích cho việc học của các chính mình. Điều này cực kỳ hữu ích vì những gì học được trong trường lớp thôi chưa đủ, đó chỉ là một phần rất nhỏ trong nguồn tri thức vô tận. Việc tìm kiếm này sẽ giúp họ mở rộng kiến thức nội dung của bài học và tiếp xúc với nhiều những điều mà họ chưa bao giờ biết trước đây. Cuối cùng, học sinh cần có ước mơ. Một ước mơ cũng là một mục tiêu mà họ muốn hướng tới, sử dụng tất cả các nỗ lực của họ để đạt được nó. Khi có một ước muốn, họ sẽ biết con đường họ muốn đi là gì, họ cần trang bị những gì và trên hành trình đó họ sẽ từng bước đạt được điều gì đó trước khi đến đích. Từ những điều trên, người học sẽ có cái nhìn khác về việc học và hiểu được tầm quan trọng của nó và từ từ thay đổi bản thân để tự học tốt hơn và nâng cao thành tích. Dù thế nào đi nữa, bản thân học sinh sẽ cần phải nỗ lực rất nhiều. Đặc biệt, khi làm việc nhóm, bất kể học sinh, dù giỏi đến đâu, học tốt đến thế nào, chỉ cần cố gắng hết mình, chúng có thể giúp cho chính mình và người khác cùng nhau tiến bộ. Lý do là vì khi học chung trong một nhóm, họ có thể học hỏi thêm nhiều điều từ mỗi thành viên trong nhóm, biết được những thứ bản thân còn thiếu sót, khuyến khích và nhắc nhở nhau học tập tốt hơn. Tarone & Yule (1989) tuyên bố rằng lòng tự trọng và sự tò mò là những yếu tố quan trọng giúp người học vượt qua những thất bại hoặc những sai lầm nhỏ trong quá trình học một ngoại ngữ. 3.3. Vai trò của phụ huynh Grolnick & Ryan (1987) khẳng định: “Người học cần cảm nhận được sự lựa chọn và quyền tự quyết, thay vì bị kiểm soát. Việc học sẽ tối ưu nhất khi người học hiểu được bản chất, có động lực để tham gia và tiếp nhận thông tin.” Cha mẹ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình khuyến khích và tạo động lực tự học của trẻ. Mặc dù có nhiều sự quan tâm từ phía thầy cô, bạn bè ở trường, nhưng những lúc khó khăn chúng vẫn cần cha mẹ giúp đỡ. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi trẻ chưa biết cách lập kế hoạch và quản lý thời gian cụ thể mặc dù giáo viên có thể đã hướng dẫn. Lúc này, cha mẹ cần đồng hành cùng con trong việc học, hỗ trợ và thông cảm với những khó khăn mà con đang gặp phải. Cha mẹ cũng có thể trở thành những người bạn thân thiết nhất của con cái. Khi đó, những đứa trẻ sẽ thoải mái chia sẻ và nhận được nguồn động lực to lớn giúp chúng tự tin rằng mình có thể làm được. Mặc dù giáo viên đã đưa ra những gợi ý về việc tạo thời khóa biểu nhưng học sinh vẫn có thể cảm thấy bối rối vì thời gian biểu của mỗi gia đình là khác nhau. Lúc này, cha mẹ, các thành viên trong gia đình, những người hiểu rõ nhất, sẽ giúp trẻ có một lịch trình ăn uống, ngủ nghỉ, học tập và vui chơi hợp lý, vừa hoàn thành việc học một cách tốt nhất, vừa tạo thời gian thoải mái, không tạo áp lực quá lớn cho các con trong việc học và có thời gian thích hợp để thư giãn và giải trí. Khi có những người bạn đồng hành đáng tin cậy trong suốt hành trình chinh phục ước mơ của mình, trẻ sẽ không còn phải sợ hãi, luôn tự tin tiến về phía trước.
Lời kết
Các nghiên cứu chỉ ra rằng thanh thiếu niên trải qua sự phát triển nhận thức cao hơn so với trẻ em và sự thay đổi này mang lại cho các em khả năng tự học tốt hơn. Tuy nhiên, kỹ năng này không thể hình thành nếu không khai thác các yếu tố ảnh hưởng khách quan và chủ quan. Học viên tuổi thiếu niên được cho là thường xuyên tiếp xúc với cha mẹ, giáo viên và bạn bè, vì vậy các em có xu hướng bị ảnh hưởng bởi những nhóm người đó. Một khi các em được tiếp xúc với một môi trường học tập có tính tự chủ cao, các em sẽ mang tâm thế tiếp nhận kỹ năng này như một phần trong cuộc sống học tập của mình. Ngoài ra, sự khác biệt về giới tính và tính cách chắc chắn góp phần vào quá trình hình thành và phát triển các chiến lược tự học. Các em gái ở tuổi vị thành niên ưu tiên áp dụng kiến thức trong khi các em nam lại nhấn mạnh vào những cách thức hợp lý để tiếp thu kiến thức. Một số học viên thiếu niên có thể học tốt nhất khi làm việc theo nhóm, nhưng những em thiếu niên khác lại học hiệu quả hơn khi không có ai làm phiền. Tương tự, tiến trình học tập có thể được hỗ trợ rất nhiều bởi các thiết bị điện tử như máy tính hoặc điện thoại thông minh. Vậy nên, nhóm tuổi thiếu niên từ 10 đến 19 tuổi cần phải có tinh thần tự giác cao để tránh xa những tác động xấu của các phát minh sáng tạo đó. Từ nhận định rõ ràng về các yếu tố tác động như đã trình bày trên đây, giáo viên và phụ huynh tại IAS nên chung tay tạo ra môi trường thuận lợi để học viên thiếu niên cảm thấy thoải mái mỗi khi tự học. Giáo viên phải có trách nhiệm tạo động lực học tập cho các em thiếu niên thông qua các bài học thú vị và các hướng dẫn học tập hiệu quả. Giáo viên cần coi trọng việc nuôi dưỡng nhu cầu học tiếng Anh trong tâm trí người học ở tuổi vị thành viên. Các em phải nhận ra rằng khả năng tiếng Anh tốt sẽ thúc đẩy cơ hội học tập và việc làm rất lớn khi nhìn vào thành công của các cựu học sinh IAS hiện đang học tập ở các trường đại học danh tiếng trong nước. Hơn nữa, bản thân học viên cũng cần tích cực hoàn thành bài tập tiếng Anh của mình và truyền tinh thần học tập như vậy cho bạn bè trong lớp của mình cũng như bạn bè ở các lớp khác. Một lĩnh vực cần được đào sâu nghiên cứu thêm là áp dụng công nghệ vào giảng dạy tiếng Anh hiệu quả trong môi trường lớp học trực tuyến.
Tài liệu tham khảo
Alexander, K. L., Entwisle, D. R. and Bedinger, S. D. (1994). When expectations work: Race and socioeconomic differences in school performance. School Psychology Quarterly, 57, 283–299. Auld, S. (2020). Time management skills that improve student learning. Retrieved from https://www.acc.edu.au/blog/time-management-skills-student-learning/ Berndt, T. J., Laychak, A. E., & Park, K. (1990). Friends' influence on adolescents' academic achievement motivation: An experimental study. Journal of Educational Psychology,82(4),664–670. Retrieved from https://psycnet.apa.org/doiLanding?doi=10.1037%2F0022-0663.82.4.664 Brown, C. (2019). How technology can help improve education. Retrieved from https://www.classcraft.com/blog/how-has-technology-improved-education/ Campbell, J., Hombo, C., and Mazzeo, J. (1999). NAEP 1999 trends in academic progress: three decades of student performance. Education Statistics Quarterly, 2, 4. Chan, N. (2019). The Truth Behind Gender Stereotypes: Are Boys Really Better at Math and Science, And Girls Better at Languages and Communication? Retrieved from https://www.scmp.com/yp/discover/lifestyle/features/article/3061133/truth-behind- gender-stereotypes-are-boys-really Corwyn, R. F., and Bradley, R. F. (2002). Family processes mediators of the relation between SES and child outcomes. Unpublished Manuscript, University of Arkansas at Little Rock. Dam, L. (1995). Learner autonomy 3: from theory to classroom practice. Dublin: Authentik. Retrieved from http://archive.ecml.at/mtp2/ELP_TT/ELP_TT_CDROM/DM_layout/Reference%20Materials/English/David%20Little%20Constructing%20a%20Theory%20of%20Learner%20Autonomy.pdf Darling, S. (2008). Family must be a part of the solution in closing the achievement gap. The Clearing House, 245-246. Dave, P. N. and Dave, J. P. (1971). Socio-economic environment as related to the non- verbal intelligence of rank and failed student. Individual Study: University of Mysore. Dickinson, L. (1993). Talking shop: aspects of autonomous learning: An interview with Leslie Dickinson. ELT Journal, 47(4), 330-336. Dickinson, L. (1995). Autonomy and motivation a literature review. System, 23(2), 165-174. Retrieved from https://core.ac.uk/download/pdf/234674899.pdf Duncan, G. J., and Brooks-Gunn, J. (1997). Consequences of growing up poor. New York: Russell Sage Foundation Edx, T. (2016). Top 5 Benefits of Preparing for the IELTS Test. Retrieved from https://blog.edx.org/top-5-benefits-of-preparing-for-the-ielts-test Ganley, C. (2018). Are Boys Better Than Girls at Math? Retrieved from https://www.scientificamerican.com/article/are-boys-better-than-girls-at-math/ Gardner, R. C., & Lambert, W. E. (1972). Attitudes and motivation in second language learning. Massachusetts: Newbury House Publishers. Gee, J. P. (2003). What video games have to teach us about learning and literacy. Basingstoke: Palgrave Macmillan. Grolnick, W. S. & Ryan, R. M. (1987). Autonomy in children’s learning: An experimental and individual difference investigation. Journal of Personality and Social Psychology, 52(5), 890-898. Hewitt, P. L. & Flett, G. L. (1991b). Perfectionism in the self and social contexts: Conceptualization, assessment, and association with psychopathology. Journal of Personality and Social Psychology, 60, 456-470. Holec, H .(1981). Autonomy and foreign language learning. Oxford: Pergamon. First published 1979, Strasbourg: Council of Europe). Holec, H. (1985). On Autonomy: some elementary concepts. In Riley, P. (Ed.), Discourse and Learning, London: Longman. Retrieved from http://people.exeter.ac.uk/zhhm201/1-s2.0-0346251X95000055-main_2.pdf Hollender, M. H. (1965). Perfectionism. Comprehensive Psychiatry, 6, 94-103. Kim Sa, T.(2010). Improve essay writing skills for 9th graders. Retrieved from https://123docz.net/document/259395-ren-luyen-ki-nang-viet-bai-nghi-luan-tac-pham-van-hoc-cho-hoc-sinh-lop-9.htm Kohn, M. L. (1963). Social class and parent-child relationships: An interpretation. American Journal of Sociology, 68, 471-480. Little, D. (1991). Autonomy: Definitions, Issues and Problems. Dublin: Authentik. Retrieved from http://people.exeter.ac.uk/zhhm201/1-s2.0-0346251X95000055-main_2.pdf Littlewood, W. (1997). Self-access work and curriculum ideologies. In P. Benson and P. Voller (Eds.), Autonomy and independence in language learning. (pp. 181-191). London: Longman. Retrieved from https://www.researchgate.net/publication/283042145_Autonomy_in_Language_Teaching_and_Learning_Process Margaret, S. (2005). Helping your child through early adolescence. Retrieved from https://www2.ed.gov/parents/academic/help/adolescence/adolescence.pdf Maria, M. (2018). 8 Differences Between Boys and Girls. Retrieved from https://www.whattoexpect.com/first-year/photo-gallery/differences-between-boys-and-girls.aspx Manon, W. (2020). How can laziness affect students? Retrieved from https://colors- newyork.com/how-can-laziness-affect-students/ Murray, D. E. (1999). Access to information technology: Considerations for language educators. Prospect, 14(3), 4–12. Retrieved from https://www.researchgate.net/publication/283647020_Special_issue_commentary_Learner_autonomy_and_new_learning_environments Pamela, E. and Davis-Kean (2005). The influence of Parent Education and Family Income on Child Achievement: The Indirect Role of Parental Expectations and the Home Environment. Journal of Family Psychology Vol. 19, No. 2, 294–304. Richards, J. & Rodgers, T. (1986). Approaches and Methods in Language Teaching. Retrieved from https://www.novaconcursos.com.br/blog/pdf/richards-jack-c.-&-rodgers.pdf Riley, P. (1997). The guru and the conjurer: aspects of counselling for self- access. In P. Benson, & P. Voller (Eds.), Autonomy and independence in language learning (pp. 114-131). New York: Longman. Retrieved from https://doi.org/10.1590/S0102-44502008000300003 Stearns, S. A. (2013). Motivating students to offer their best: Evidence based effective course design, College Teaching, 61(4), 127-130. doi:10.1080/87567555 Tarone, E. and Yule, G. (1989). Focus on the Language Learner. Oxford: OUP. Thu Ba, N. (2018). Important to develop learning autonomy for secondary and high school students. Retrieved from https://bigschool.vn/ky-nang-tu-hoc-can-phat-trien-cho-hoc-sinh-pho-thong-nhu-the-nao Ushioda, E. (1996). Learner autonomy 5: The role of motivation. Dublin: Authentik. Retrieved from https://core.ac.uk/download/pdf/266996634.pdf Varola, B., & Yilmaz, S. (2010). Similarities and differences between female and male learners: Inside and outside class autonomous language learning activities. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 3(1), 237–244. Wang, M. C. and Peverly, S. T. (1986). The Self-instructive process in classroom learning contexts. Contemporary Educational Psychology 11, 370--404. Retrieved Sept 29, 2021 from http://people.exeter.ac.uk/zhhm201/1-s2.0-0346251X95000055-main_2.pdf
ĐIỀN THÔNG TIN ĐĂNG KÝ HỌC VÀ HỌC BỔNG
Headquarters: 143 Ngô Quyền, TT Gia Ray, Xuân Lộc (Sau Hoa Viên thị trấn)
ĐT: 0933863831(Trụ sở) - 0933131540 (Xuân Tâm) – 0355970984 (Suối Cát).
1. Xuan Tam Campus: Trường Tiểu Học Xuân Tâm 2, Quốc Lộ 1A, Ấp 4 Xuân Tâm, Xuân Lộc (Đối diện chợ Xuân Đà)
ĐT: 0933863831
2. Suoi Cat Campus: 78 Song hành, Suối Cát, Xuân Lộc, Đồng Nai
ĐT: 0355970984
3. IAS Online School: 1 Kèm 1, học theo nhóm
ĐT: 0933863831
Email: anhnguquoctemy@yahoo.com
FANPAGE: www.facebook.com/quoctemy.vn
HOTLINE: 0919623686